Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


  • Khái niệm phạm trù:

 Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ chung, cơ bản nhất của sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Ta có thể nói, phạm trù là những khái niệm, nhưng không phải khái niệm nào cũng là phạm trù mà chỉ những khái niệm chung, cơ bản, có ngoại diên rộng báo quát rộng. Mỗi một bộ môn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng như trong môn toán có phạm trù hình, số,... hay trong vật lý có phạm trù khối lượng, vận tốc,... Tuy nhiên phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, số lượng,... là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực.
 Chính vì vậy, phải nắm vững mối liên hệ qua lại biện chứng của các phạm trù từ đó vận dụng chúng một cách tự giác trong hoạt động của mình, trở thành cái cần thiết của tất cả mọi người.

1. PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG:

 1.1. Phạm trù cái chung, cái riêng và các đơn nhất:

 Phạm trù cái chung là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố quan hệ lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
 Phạm trù cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình,... xác định tồn tại tượng đối độc lập so với các sự vật, hiện tượng, quá trình,... khác.
 Phạm trù cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ nhưng nét, những mặt, những thuộc tính,... chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất khác.

 1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất:

 Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
 Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập tách rời cái riêng, tức là không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng cụ thể. Ta có thể lấy ví dụ về con cá có nhiều thuộc tính cụ thể khác nhau nhưng chúng có những thuộc tính riêng như chúng là động vật có xương sống, thở bằng mang, bơi bằng vây. Tất cả tạo nên cái chung và được phản ánh trong khái niệm cá.
 Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập tuyệt đối với cái chung.
 Cái riêng là toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bên cạnh cái chung, bất cử cái riêng nào cũng chứa đựng những cái đơn nhất là những cái chỉ vốn có ở nó và không lặp lại ở bất cứ sự vật nào nữa.
 Cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất.
 Trong quá trình phát triển, trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể biến thành cái đơn nhất.

 1.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

 Nhận thức cái chung để vận dụng cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn,
 Cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
 Khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ trong vận dụng cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.
 Cần biết vận dụng điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái chung và cái đơn nhất theo những mục đích nhất định.

2. PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ:

 2.1. Phạm trù nguyên nhân và kết quả:

 Tác động cùa hiện tượng A gây nên, làm biến đổi hay kéo theo sau nó hiện tượng khác- hiện tượng B. Ta có thể gọi hiện tượng A là nguyên nhân và hiện tượng B là kết quả.
 Từ đây, ta có thể đưa ra khái niệm về phạm trù nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng, sự vật khác, từ đó tạo nên sự biến đổi nhất định. Còn kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
 Để dễ hiểu ta lấy ví dụ điện tác động lên dây dẫn làm cho dây dẫn nóng lên. Do điện tác động lên dây dẫn cho nên đây là nguyên nhân và sinh ra kết quả là làm cho dây dẫn nóng lên.

 2.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:


  •  Nguyên nhân sinh ra kết quả:
 Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.

  •  Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào?
 Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả khác nhau tùy thuộc vào hướng tác động của nó. Có 2 hướng tác động:
   - Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng một chiều với sự hình thành kết quả.
   - Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yêu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu các tác động với nhau.
 Một nguyên nhân có thể sinh ra một hay nhiều kết quả vào từng hoàn cảnh cụ thể. Một kết quả do một hay nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đơn lẻ hay tác động cùng một lúc.

  •  Phân loại nguyên nhân:
 Sự tác động của nhiều nguyên nhân có thể dẫn tới sự hình thành một khái niệm theo hướng thuận nghịch khác nhau; đều có ảnh hưởng đến kết quả nhưng vị trí, vai trò khác nhau như nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp,..; một nguyên nhân dẫn đến nhiều kết quả trong đó có kết quả chính, kết quả phụ, kết quả cơ bản, kết quả không cơ bản.
   - Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu: nguyên nhân chủ yếu là những nguyên nhân mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không thể xảy ra. Nguyên nhân thứ yếu là những nguyên nhân mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, không ôn định, cá biệt của hiện tượng.
   - Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:  Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt hay những yếu tố của con người, kết cấu vật chất nào đó gây ra những biến đổi nhất định. Chính vì vậy mà nguyên nhân bên trong nắm vai trò quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của các kết cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài là những nguyên nhân tác động lẫn nhau giữa các kết cấu vật chất khác nhau và gây ra những biến đổi thích hợp trong những kết vấu vật chất ấy. Chính vì vậy mà nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác động thông qua những nguyên nhân bên trong.
   - Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập với ý thức con người, của các giai cấp, các chính đảng. Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức con người, trong lĩnh vực hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng. Từ đó nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển,... các quá trình xã hội: nếu hoạt động con người phù hợp với quan hệ nhân- quả thì sẽ đẩy nhanh sự biến đổi của các hiện tượng xã hội; và ngược lại nếu hoạt động con người không phù hợp với quan hệ nhân- quả khách quan thì sẽ kìm hãm biến đổi ấy.

  •  Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
 Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân mà nó ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.

  •  Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả:
 Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Chính vì vậy mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Ta chí có thể xác định nguyên nhân và kết quả trong một quan hệ xác định cụ thể.

 2.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

 Trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân- quả.
 Phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
 Phải có cách nhìn mang tính toàn diện và lịch sử- cụ thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân- quả.

3. PHẠM TRÙ TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN:

 3.1. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên:

 Phạm trù tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó xảy ra như thế và không thể khác. Phạm trù tất nhiên mang tính tất định.
 Phạm trù ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Chính vì vậy mà phạm trù ngẫu nhiên có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này hay như thế khác.

 3.2. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:

 Trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, cái tất nhiên đóng vai trì quyết định, chi phối khi cái có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy, có thể làm cho sự phát triển nhanh hay chậm.
 Tồn tại trong sự thống nhất bản chất với nhau: không có tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
 Cái tất nhiên luôn vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của các tất nhiên đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
 Tất nhiên và ngẫu nhiên luôn thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định, chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Ta có thể lấy một số ví dụ như từ việc trao đổi hàng hóa ngẫu nhiên trong xã hội nguyên thủy, nay đã trở thành trao đổi hàng hóa- một quá trình tất nhiên của xạ hội loài người.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn rất nhiều!