I. ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT:
1. Quá trình hình thành khái niệm vật chất:
Trong lịch sử triết học trước Mác, hai trường phái chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã có những khái niệm khác nhau về vật chất.
a) Chủ nghĩa duy vật:
Vào thời cổ đại, các nhà chủ nghĩa duy vật đã đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Ta lấy ví dụ về nhà triết học Talet khi coi thực thể của thế giới là nước.
Còn vào thời cận đại, khi khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, quan điểm siêu hình, máy móc bao trùm tất cả. Cho nên các nhà triết học coi nguyên tử (những phân tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được và không vận động, không gian và thời gian) là nguồn gốc thế giới. Ngoài việc họ đồng nhất vật chất với nguyên tử, họ còn đồng nhất vật chất với khối lượng coi đó là đại lượng bất biến.
b) Chủ nghĩa duy tâm:
Các nhà duy tâm chủ quan coi vật chất là tổng hợp của các cảm giác của con người.
Ví dụ: Từ thuở bé, chúng từng đọc câu truyện ngụ ngôn "thầy bói xem voi". Thầy sờ vòi bảo vòi voi sun sun như con đỉa. Thầy sờ ngà bảo nó dài như cái đòn càn. Thầy sờ tai bảo nó bè bè như cái quạt thóc. Và vật chất được tạo từ những cảm giác đó.
Các nhà duy tâm khách quan coi vật chất là sản phẩm của ý niệm. Chính con người nghĩ ra vật chất. Con người nghĩ về một bông hoa, và bông hoa trong đời thực được sinh ra từ suy nghỉ đó.
Tôn giáo coi vật chất là sản phẩm của Chúa, Thượng đế.Ta đã từng nghe câu chuyện Thiên chúa dựng nên trời đất:
Đầu tiên Chúa đã dựng nên trời đất.
Ngày thứ nhất ngài tạo ra anh sáng.
Ngày thứ hai ngài tạo ra nước.
Ngày thứ ba ngài tạo ra cây cối.
Ngày thứ tư ngài tạo ra các ngôi sao.
Ngày thứ năm ngài tạo ra thú vật.
Ngày thứ sáu ngài tạo ra con người.
Ngày thứ bảy ngài nghỉ ngơi.
2. Khái niệm vật chất:
a) Quan điểm của Mác và Angghen:
-Khi nghiên cứu phạm trù vật chất phải thông qua phạm trù đối lập của nó là phạm trù ý thức.
-Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó.
-Phương thức tồn tại của vật chất là vận động, không gian và thời gian.
-Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn.
-Vật chất với tính cách là một phạm trù triết học thì không cảm tính mà chỉ cảm tính được các dạng cụ thể của vật chất mà thôi.
Tuy nhiên do trình độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, các ông chưa đưa ra cụ thể về vật chất. Nhưng dựa trên nền tảng các lý luận trên, đã trở thành cơ sở nền tảng cho Lênin đưa ra các quan điểm về vật chất sau này.
b) Quan điểm của Lênin về vật chất:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại con người trong cảm giác, được cảm giác con người chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Như vây, vật chất độc lập với ý thức, để nhận biết ta cần phải dựa vào thực tại khách quan, tức là các dạng tồn tại độc lập với con người, với cảm giác con người.
Từ khái niệm vật chất của Lênin, ta có thể hiểu:
-Vật chất là một phạm trù triết học. Cần phân biệt "vật chất" với tư cách là phạm trù triết học (tức là phạm trù khách quan và cơ bản nhất) với khái niệm "vật chất" được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành.
-Vật chất là thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất, là thuộc tính tồn tại khách quan (tồn tại khách quan ngoài ý thức, độc lập không phụ thuộc vào ý thức con người).
-Vật chất là thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác (không lệ thuộc vào cảm giác), được cảm giác con người chụp lại, phản ánh. Và dưới một dạng cụ thể, vật chất gây nên cảm giác khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan của con người.
Ví dụ: Khi ta cầm một cục nước đá, tay ta cảm thấy lạnh đó là do cục nước đá đã tác động lên xúc giác con người và ngay lập tức, bộ não con người phản ánh lại với cục nước đá đó.
Chính vì vậy, ta có thể nhận định vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc của cảm giác, ý thức.
- Ý nghĩa khái niệm vật chất của Lênin:
-Khắc phục những hạn chế về khái niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ (khắc phục những tính chất siêu hình, máy móc tron quan điểm lúc bấy giờ), khắc phục được hạn chế trong quan điểm xã hội.
-Khẳng định tính thừ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật, khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan, từ đó mở đường đi sâu vào nghiên cứu, thám phá những kết cấu phức tạp của thế giới vật chất.
-Chống lại quan điểm tôn giáo, duy tâm về phạm trù vật chất.
-Chống lại thuyết không thể biết.
-Liên kết chủ nghĩ duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một thể thống nhất.
II. HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT:
1. Vận động:
a) Khái niệm vận động:
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là một hình thức cố hữu của vật chất- bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ thay đổi đơn giản đến tư duy (mọi sự thay đổi nói chung).
Vận động là tự thân vận động, không có tác động từ bên ngoài sự vật, hiện tượng quyết định mà do mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng.
Vận động không phải sự thay đổi thuần túy trong không gian; với sự đa dạng, phong phú, vật chất còn nhiều hình thức vận động khác nhau, phức tạp hơn nhiều.
Vật chất gắn liền với vận động, không thể có vận động tách khỏi vật chất và cũng không có vật chất mà không có vận động. Vật chất tồn tại bằng cách vận động, trong vận động và thông qua vận động má các dạng vật chất thể hiện đặc tính riêng của mình.
Vì vận động là phương thức tồn tại của vật chất cho nên vật chất tồn tại khách quan, không sinh ra và không mất đi. Vận động là tuyệt đối.
b) Hình thức vận động:
-Vận động cơ học là vận động đơn giản nhất, là sự chuyển dịch vị trí của các vật thể trong không gian. Vận động cơ học là đối tượng nghiên cứu của cơ học.
-Vận động vật lý là vận động của các phân tử điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt điện. Vận động vật lý là đối tượng nghiên cứu của lý học.
-Vận động hóa học là sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hợp và phân giải.
-Vận động sinh học là quá trình biến đổi các chất đặc trưng cho sự sống, sự lớn lên của cơ thể sống nhờ quá trình trao đổi chất và môi trường; sự biến đổi cấu trúc gen.
-Vận động xã hội là sự biến đổi các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Vận động xã hội là đối tượng nghiên cứu của các ngành khóa học như kinh tế học, chính trị học, đạo đức học.
Ta có thể thấy các hình thức vận động được xắp sếp theo thứ tự, trình độ từ thấp lên cao tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất.
Vận động khác nhau về chất nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau (có khả năng chuyển hóa cho nhau). Hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình thức vận động thấp và bao hàm những hình thức vận động thấp hơn. Sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau nhưng bản thân sự tồn tại của sự vật đó đặc trưng cho một hình thức vận động cơ bản. Ta có thể lấy một ví dụ, một cơ thể sinh vật gồm vận động cơ học, vận động vật lỳ, vận động sinh học nhưng hình thức vận động sinh học của sinh vật là đặc trưng cơ bản của sinh vật.
c) Đứng im:
Đứng in mà trạng thái đặc trưng của vận động, đó là vận động trong hệ cân bằng và đứng im là hiện thượng tương đối vì chỉ xảy ra đối với một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả các hình thức vận động và tất cả các quan hệ, đứng im là hiện tượng tạm thời vì đứng im chì tồn tại trong thời gian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn.
Ví dụ: ta có thể lấy một ví dụ như một chiếc xe đang chạy thì nếu so với chiếc xe thì con người ngổi trong chiếc xe đang đứng im, nhưng nếu so với cảnh vật xung quanh thì con người ngồi trong chiếc xe đang vận động.
Vận động hệ cân bằng là vận động chưa làm thay đổi cơ bản về vị trí, hình thành, kết cấu của sự vật, chưa làm thay đổi cơ bản chất của sự vật.
2. Không gian và thời gian:
Mọi dạng cụ thể của vật chất tồn tại ở một số vị trí nhất định, có một quãng tính nhất định và tồn tại trong các mối tượng quan nhất định, đó là không gian.
Tồn tại của sự vật được thể hiện ở quá trình biến đổi nhanh hay chậm, kế tiếp và hóa, đó chính là thời gian.
Không gian thời gian gắn bó chặt chẽ với nhau đều là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vât chất tồn tại ngoài không gian và thời gian, cũng như không có không gian, thời gian tồn tại bên ngoài vật chất.
- Tích chất của không gian và thời gian:
-Tính khách quan: Vật chất tồn tại khách quan nên không gian, thời gian cũng tồn tại khách quan.
-Tính vĩnh cữu và vô tận.
-Tính 3 chiều của không gian (chiều rộng, chiều dài, chiều cao) và tính một chiều của thời gian (quá khứ đến hiện tại và đến tương lai)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều!