Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


  • Khái niệm phạm trù:

 Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ chung, cơ bản nhất của sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Ta có thể nói, phạm trù là những khái niệm, nhưng không phải khái niệm nào cũng là phạm trù mà chỉ những khái niệm chung, cơ bản, có ngoại diên rộng báo quát rộng. Mỗi một bộ môn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng như trong môn toán có phạm trù hình, số,... hay trong vật lý có phạm trù khối lượng, vận tốc,... Tuy nhiên phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, số lượng,... là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực.
 Chính vì vậy, phải nắm vững mối liên hệ qua lại biện chứng của các phạm trù từ đó vận dụng chúng một cách tự giác trong hoạt động của mình, trở thành cái cần thiết của tất cả mọi người.

1. PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG:

 1.1. Phạm trù cái chung, cái riêng và các đơn nhất:

 Phạm trù cái chung là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố quan hệ lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
 Phạm trù cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình,... xác định tồn tại tượng đối độc lập so với các sự vật, hiện tượng, quá trình,... khác.
 Phạm trù cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ nhưng nét, những mặt, những thuộc tính,... chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất khác.

 1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất:

 Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
 Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của nó; cái chung không tồn tại biệt lập tách rời cái riêng, tức là không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng cụ thể. Ta có thể lấy ví dụ về con cá có nhiều thuộc tính cụ thể khác nhau nhưng chúng có những thuộc tính riêng như chúng là động vật có xương sống, thở bằng mang, bơi bằng vây. Tất cả tạo nên cái chung và được phản ánh trong khái niệm cá.
 Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập tuyệt đối với cái chung.
 Cái riêng là toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bên cạnh cái chung, bất cử cái riêng nào cũng chứa đựng những cái đơn nhất là những cái chỉ vốn có ở nó và không lặp lại ở bất cứ sự vật nào nữa.
 Cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất.
 Trong quá trình phát triển, trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể biến thành cái đơn nhất.

 1.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

 Nhận thức cái chung để vận dụng cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn,
 Cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
 Khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ trong vận dụng cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.
 Cần biết vận dụng điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái chung và cái đơn nhất theo những mục đích nhất định.

2. PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ:

 2.1. Phạm trù nguyên nhân và kết quả:

 Tác động cùa hiện tượng A gây nên, làm biến đổi hay kéo theo sau nó hiện tượng khác- hiện tượng B. Ta có thể gọi hiện tượng A là nguyên nhân và hiện tượng B là kết quả.
 Từ đây, ta có thể đưa ra khái niệm về phạm trù nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng, sự vật khác, từ đó tạo nên sự biến đổi nhất định. Còn kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
 Để dễ hiểu ta lấy ví dụ điện tác động lên dây dẫn làm cho dây dẫn nóng lên. Do điện tác động lên dây dẫn cho nên đây là nguyên nhân và sinh ra kết quả là làm cho dây dẫn nóng lên.

 2.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:


  •  Nguyên nhân sinh ra kết quả:
 Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.

  •  Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào?
 Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả khác nhau tùy thuộc vào hướng tác động của nó. Có 2 hướng tác động:
   - Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng một chiều với sự hình thành kết quả.
   - Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yêu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu các tác động với nhau.
 Một nguyên nhân có thể sinh ra một hay nhiều kết quả vào từng hoàn cảnh cụ thể. Một kết quả do một hay nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đơn lẻ hay tác động cùng một lúc.

  •  Phân loại nguyên nhân:
 Sự tác động của nhiều nguyên nhân có thể dẫn tới sự hình thành một khái niệm theo hướng thuận nghịch khác nhau; đều có ảnh hưởng đến kết quả nhưng vị trí, vai trò khác nhau như nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp,..; một nguyên nhân dẫn đến nhiều kết quả trong đó có kết quả chính, kết quả phụ, kết quả cơ bản, kết quả không cơ bản.
   - Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu: nguyên nhân chủ yếu là những nguyên nhân mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không thể xảy ra. Nguyên nhân thứ yếu là những nguyên nhân mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, không ôn định, cá biệt của hiện tượng.
   - Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:  Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt hay những yếu tố của con người, kết cấu vật chất nào đó gây ra những biến đổi nhất định. Chính vì vậy mà nguyên nhân bên trong nắm vai trò quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của các kết cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài là những nguyên nhân tác động lẫn nhau giữa các kết cấu vật chất khác nhau và gây ra những biến đổi thích hợp trong những kết vấu vật chất ấy. Chính vì vậy mà nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác động thông qua những nguyên nhân bên trong.
   - Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập với ý thức con người, của các giai cấp, các chính đảng. Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức con người, trong lĩnh vực hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng. Từ đó nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển,... các quá trình xã hội: nếu hoạt động con người phù hợp với quan hệ nhân- quả thì sẽ đẩy nhanh sự biến đổi của các hiện tượng xã hội; và ngược lại nếu hoạt động con người không phù hợp với quan hệ nhân- quả khách quan thì sẽ kìm hãm biến đổi ấy.

  •  Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
 Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân mà nó ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.

  •  Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả:
 Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Chính vì vậy mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Ta chí có thể xác định nguyên nhân và kết quả trong một quan hệ xác định cụ thể.

 2.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

 Trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân- quả.
 Phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
 Phải có cách nhìn mang tính toàn diện và lịch sử- cụ thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân- quả.

3. PHẠM TRÙ TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN:

 3.1. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên:

 Phạm trù tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó xảy ra như thế và không thể khác. Phạm trù tất nhiên mang tính tất định.
 Phạm trù ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Chính vì vậy mà phạm trù ngẫu nhiên có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này hay như thế khác.

 3.2. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:

 Trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, cái tất nhiên đóng vai trì quyết định, chi phối khi cái có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy, có thể làm cho sự phát triển nhanh hay chậm.
 Tồn tại trong sự thống nhất bản chất với nhau: không có tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
 Cái tất nhiên luôn vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của các tất nhiên đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
 Tất nhiên và ngẫu nhiên luôn thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định, chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Ta có thể lấy một số ví dụ như từ việc trao đổi hàng hóa ngẫu nhiên trong xã hội nguyên thủy, nay đã trở thành trao đổi hàng hóa- một quá trình tất nhiên của xạ hội loài người.

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN:

 1.1. Khái niệm:

   1.1.1. Mối liên hệ:

 Mối liên hệ là phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong đó, sự biến đổi sự vật hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi sự vật, hiện tượng khác. Ta có thể lấy ví dụ về mối quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường: cung tăng thì cầu giảm, cung giảm thì cầu tăng. Cung và cầu quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau từ đó tạo nên quá trình vận động và phát triển không ngừng.

   1.1.2. Mối liên hệ phổ biến:

 Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới. Đồng thời, mối liên hệ phổ biến cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù chỉ biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng nhất định.
 Mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
 Chính vì vậy, giữa các sự vật, hiện tượng không chỉ tồn tại mối liên hệ đặc thù, ngoài ra còn tồn tại những mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ cung cầu là mối liên hệ phổ biến- mối liên hệ chung, nhưng mối liên hệ cung cầu được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù trong từng thị trường hàng hóa, tùy thời điểm xuất hiện. Tuy khác nhau nhưng các mối liên hệ vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của mối liên hệ cung cầu.

 1.2. Tính nhất của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

   1.2.1. Tính khách quan;

 Tính khách quan biểu hiện sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẩn nhau của các sự vật, hiện tượng, là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Vd: Mối liên hệ giữa trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường (đồng hóa- dị hóa), mối liên hệ ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cung vá cầu,... là những mối liên hệ, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.

   1.2.2. Tính phổ biến:

 Tính phổ biến biểu hiện qua:
   - Không có sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
   - Bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tượng tác và làm biến đổi nhau.
 Vd: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng tự trao đổi chất với môi trường, nhờ cơ chế này mà cơ thể sống đó mới tồn tại, phát triển. Đồng thời bản thân môi trường sống cũng là một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố lớp, phân hệ trược tiếp, gián tiếp.

   1.2.3. Tính đa dạng, phong phú:

Biểu hiện ở chỗ:
   - Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó như mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ hiện tượng,...
   - Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Tức là mỗi mối quan hệ có những biểu hiện phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau.
 Chính vì vậy, ta không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định trong điều kiện xác định.
 Mối liên hệ diễn ra rất phức tạp trong đời sống xã hội vì đó có sự tham gia của con người và ý thức. Nhận thức các mối liên hệ tuy phức tạp nhưng vẫn nhận thức được qua các chuẩn mực về mặt văn hóa, xã hội.

  1.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

 Từ tính khách quan và tính phổ biến của nguyên lý mối liên hệ phổ biến, ta rút ra ý nghĩa cần có quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tức là phải có cái nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ của sự vật đó. Nhận thức phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố , giữa các mặt của sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng khác.
 Từ tính đa dạng, phong phú của nguyên lý mối liên hệ phồ biến, khi thực hiện quan điểm toàn diện phải đồng nhất với quan điểm lịch sử- cụ thể.
 Phải phân biệt vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, rút ra những mối liên hệ phổ cơ bản, chủ yếu nhằm xác định bản chất của sự vật, hiện tượng.
 Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải.
 Chống lại cách xem xét sự vật phiếm diện, một chiều.
 Chống lại chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.

2. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN:

 2.1. Khái niệm:

 Khái niệm dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn,...Tuy nhiên, phát triển không phải sự tăng hay giảm thuần túy về lượng hay sự thay đổi lặp đi, lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở trình độ cao hơn. Ta có thể lấy một ví dụ từ quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao, quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức xã hội từ hình thức xã hội thị tộc, bộ lạc tiến tới hình thức cao hơn là hình thức bộ tộc, dân tộc.

 2.2. Tính chất của nguyên lý về sự phát triển:

   2.2.1. Tính khách quan:

 Tính khách quan biểu hiện trong nguồn gốc của vận động và phát triển, tức là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng, là quá trình giải quyết mâu thuân của sự vật, hiện tượng đó. Ta có thể hiểu là mọi quá trình phát triển của tự nhiên và tư duy là quá trình diễn ra theo tính tất yếu của quy luật đó. Như quá trình phát sinh ra một loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hóa của giới tự nhiên.

   2.2.2. Tính phổ biến:

 Tính phổ biến biểu hiện qua quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng có thể bao hàm trong nó khả năng của sự phát triển. Trong giới tự nhiên, sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ, từ vật chất chưa có năng lực, sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hóa dần dần lên các cơ thể có cấu trúc sự sống phức tạp.

   2.2.3. Tính đa dạng, phong phú:

 Tính đa dạng, phong phú biểu hiện ở chổ phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, hiện tượng, lĩnh vực, hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tức các lĩnh vực khác nhau, sự vật khác nhau, điều kiện khác nhau thì cũng có sự khác nhau ít nhiều về tính chất con đường và mô thức của sự phát triển. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng chịu nhiều tác động của sự vật, hiện tượng hay quá trình khác của yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể. Chính vì vậy, sự phát triển có thể thay đổi chiều hướng phát triển thậm chí làm thụt lùi tạm thời.
Vd: Ta không thể đồng nhất phương thức phát triển của giới tự nhiên (mang tính thuần túy và tự phát) và sự phát triển của xã hội loài người (mang tính tự giác, có sự tham gia của nhân tố ý thức).

 2.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

   - Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển.
   - Luôn phài nhận thức và cải tạo thế giới.
   - Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì truệ, định biến đối lập với sự phát triển.
   - Cần có quan điểm biện chứng về sự phát triển là cơ sở trí tuệ của niềm tin và thái độ lạc quan, khoa học của người cách mạng.
   - Vì con đường của sự phát triển là một quá trình biện chứng. Chính vì vậy, phải có nhận thức được ính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó.
   - Chống lại quan điểm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, sớm xóa bỏ cái cụ khi chưa có đầy đủ điều kiện chín muồi.
   - Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và giải quyết vấn đề thực tiễn sao cho phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG:

 1.1. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng:

   1.1.1. Biện chứng:

 Biện chứng là khái niệm chỉ những mối liên hệ tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
 Biện chứng gồm biện chứng khách quanbiện chừng chủ quan:
   - Biện chứng khách quan là phạm trù dùng để chỉ biện chứng của bản chất bản thân sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại, độc lập và ở bên ngoài ý thức con người, được xuất phát từ tính thống nhất vật chất, là bản chất của thế giới vật chất, có nghĩa là biện chứng khách quan là mối liên hệ tượng tác, chuyển hóa và vận động, phát triển của thế giới vật chất. Chính vì vậy biện chứng khách quan chi phối toàn bộ giới tự nhiên.
   - Biện chứng chủ quan là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện chừng và biện chứng của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người. Chính vì vậy mà biện chứng chủ quan phản ánh sự chi phối của toàn bộ giới tự nhiên.

  1.1.2. Phép biện chứng:

 Phép biện chứng là học thuyết, là phản ánh biện chứng khách quan vào trong nhận thức con người, nghĩa là học thuyết nghiên cứu khái quát bản chất của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc, phương pháp của nhận thức và thực tiễn. Chính vì vậy phép biện chứng là biện chứng chủ quan- sự phản ánh biện chứng khách quan vào bộ não người. Phép biện chứng đối lập hoàn toàn với phép biện chứng siêu hình- phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập, bất biến.

 1.2. Hình thức cơ bản của phép biện chứng:

  1.2.1. Phép biện chứng chất phát thời cổ đại:

 Phép biện chứng chất phát thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng và đỉnh cao là phép biện chứng cổ đại Hy Lạp. Do trình độ khoa học lúc bấy giờ cho nên quan điểm giới tự nhiên xuất phát từ sự quan sát trực tiếp thế giới để phỏng đoán nên các quy luật vận động và chưa có cơ sở khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng cho thấy được bức tranh về sự chồng chịt vô vận những mối liên hệ và sự tác động, vận động và phát triển nhưng chưa làm rõ cái gì liên hệ cũng như quy luật nội tại của sự vận động và phát triển.

  1.2.2. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức:

 Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức là hình thức thứ 2 của phép biện chứng mang tính chất duy tâm vì nó nói lên sự vận động phát triển của ý niệm tuyệt đối, được đồng nhất với bản thân sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức đã bỏ qua mối liên hệ giữa khách thể đang nghiên cứu với khách thể khác; cố định sự vật trong trạng thái hiện có, không vận động, phát triển.

  1.2.3. Phép biện chứng duy vật:


 Phép biện chứng duy vật được Mác- Ăngghen sáng tạo và được Lênin bảo vệ và phát triển. Mác và Ăngghen đã khắc phục ti1nh chất duy tâm trong phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức. Đây là hình thức cao nhất của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật thoát khỏi triết học duy tâm, đưa vào đó những quan điểm duy vật về tự nhiên và về lịch sử. Chính vì vậy mà phép biện chứng duy vật đã khái quát được một cách đúng đắn những quy luật vận động, phát triển chung nhất của thế giới.

2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT:


 2.1. Khái niệm phép biện chứng duy vật:

 Phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện; học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn vận động, phát triển không ngừng. Phép biện chứng duy vật đã bao hàm nội dung hết sức phong phú dù đối tượng phản ánh là thế giới vật chất vô cùng, vô tận.

 2.2. Đặc trưng của phép biện chứng duy vật:

  2.2.1. Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng:

   - Thế giới quan là thế giới duy vật xem xét sự vật trong sự phát triển của nó.
   - Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trên nền tảng thực tiễn.

  2.2.2. Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng:

 Tính khoa học:
   - Phép biện chứng duy vật là sản phẩm của điều kiện kinh tế- xã hội, tiền đề lý luận, tác động khoa học tự nhiên, gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
   - Phép biện chứng phản ánh đúng đắn bản chất các quy luật, vận động, phát triển của thế giới, điều đó được thực tiễn và khoa học kiểm nghiệm.
   - Phép biện chứng duy vật là thế giới quan, phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
 Tính cách mạng:
   - Phép biện chứng là vũ khí lý luận tinh thần của giai cấp vô sản.
   - Phép biện chứng duy vật không dừng lại việc giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
   - Phép biện chứng duy vật khẳng định sự tất thắng của cái mới tiến bộ.
   - Phép biện chứng duy vật không quất phục cái gì, chống lại sự nhìn nhận rập khuôn, giáo điều, bảo thủ, trì truệ.
 Tính thống nhất:
   - Tính khoa học là cơ sở, tiền đề cho tính cách mạng.
  - Không có tính khoa học thì không có tính cách mạng, trong tính khoa học chứa đựng tinh thần cách mạng, trong tính ca1ch mạng chứa nội dung khoa học. Chính vì vậy, tính khoa học càng cao, tính cách mạng càng sâu sắc và ngược lại.

  2.2.3. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:

   - Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của phép biện chứng duy vật, là tiêu chuẩn chân lý của lý luận của phép biện chứng duy vật.
   - Lý luận phép biện chứng duy vật xuất phát từ thực tiễn, phục vụ cho thực tiễn, định hướng cho sự phát triển của thực tiễn.

  2.2.4. Tính sáng tạo:

   - Phép biện chứng duy vật là hệ thống mở, nó luôn luôn phát triển bổ sung bởi các thành tựu mới của khoa học và thực tiễn xã hội.
   - Phép biện chứng duy vật đề ra các nguyên tắc, phương pháp luận để nhận thức và thực tiễn.
 Chính vì vậy mà khi vận dụng phép biện chứng duy vật cần mang tính sáng tạo.

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
 Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, còn ý thức thì tác động trở lại vật chất thống qua thực tiễn của con người. Chính vì vậy, ta có thể nói mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng.

 1.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức:

 Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc ý thức, quyết định ý thức. Ta có thể hiểu:
   - Vật chất giữ vai trò là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện quyết định quá trình hình thành, vận động và phát triển ý thức.
   - Vât chất giữ vai trò là cơ sở, điều kiện quyết định mọi hoạt động sáng tạo của ý thức.
 Ta nói vật chất là nguồn gốc ý thức, quyết định ý thức, vì:
   - Ý thức là sản phẩm tinh thần của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Chỉ có con người mới có ý thức. Chính vì vậy, vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
   - Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên (bộ não người), nguồn gốc xã hội ( thế giới khách quan tác động lên bộ não người gây ra hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) hoặc chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan) hoặc là những dạng tồn tại của vật chất đã chứng minh vật chất là nguồn gốc của ý thức.
   - Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất cho nên nội dung của ý thức được quyết định bới vật chất.
   - Vật chất quyết định bởi ý thức.
   - Vật chất quyết định phương thức, kết cấu của ý thức.

 1.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất:

 Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
 Ý thức không trực tiếp thay đổi hiện thực mà qua hoạt động vật chất của con người. Tuy nhiên mọi hoạt động vật chất đều do ý thức chỉ đạo. Cho nên ý thức không trực tiếp thay đổi thế giới vật chất mà ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan. Từ ý thức có được, con người xác định mục tiêu, phương hướng cho hoạt động thực tiễn; con người xây dựng nên phương pháp, mô hình,kế hoạch tổ chức hoạt động thực tiễn.
 Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự vận động phát triển trong những điều kiện ở mức độ nhất định:
   - Thúc đẩy: Ý thức phản ánh phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy sự phát triển của các điều kiện vật chất. Khi con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hoạt động của con người cũng phù hợp với quy luật khách quan. Từ đó con người vượt qua thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình.
   - Kiềm hãm: Ý thức phản ánh không phù hợp với thực tiễn làm hướng hoạt động của con người đi ngược với các quy luật khách quan, từ đó sẽ làm kiềm hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất. Tuy nhiên đó chỉ mang tính tạm thời vì vật chất luôn vận động theo quy luật khách quan. Chính vì vậy, phải luôn có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.
Tóm lại, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức quyết định hoạt động của con người, hoạt động thực tiễn của con người là đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

2. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN:

 Hoạt động nhận thức và thực tiễn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.

 2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan, tồn trọng thế giới khách quan:

 Có nghĩa là xuất phát từ tính khách quan, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật nhận thức và hành động theo quy luật, tôn trọng vai trò quyết định đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Chính vì vậy, con người phải nhận thức và hoạt động xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích đề ra đường lối, chủ trương chính sách, kế hoạch, biện pháp.

 2.2. Phát huy tính năng động chủ quan:

 Là phát huy vai trò tích cực năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động, sáng tạo đó. Con người phải tôn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập nghiên cứu để có thể truyền bá vào quần chúng để trở thành tri thức niềm tin. Con người phải tự giác rèn luyện, tu dưỡng để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hoạt động.

 2.3. Thực hiên nguyên tắc tôn trọng khách quan:

 Là phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn. Phòng chống, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí- lấy ý chí đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho các đường lối, chính sác. Cần chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì truệ, thụ động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016

NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC

I. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC:

 1. Nguồn gốc tự nhiên:

   a) Bộ óc người:

 Ý thức là một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, là chức năng của bộ óc người; là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật- xã hội sau khi vượn biến thành người, bộ óc vượn biến thành bộ óc người. Bộ óc người là tổ chức vật chất sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 15 đến 17 tỳ noron tế bào thần kinh có liên quan đến nhau và với các giác quan. Chức năng của bộ não người là thu nhận, xử lý, lưu trữ thông tin.  Bộ não người đóng vai trò là cơ quan vật chất của ý thức, cho nên khi bộ óc bị tổn thương sẽ làm ý thức bị rối loạn. Ta có thể thấy một số trường hợp bị chấn thương phần đầu dẫn đến tình trạng mất trí nhớ.

   b) Phản ánh:

  • Khái niệm phản ánh:

 Phản ánh là thuộc tính phổ biến của vật chất, là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, tạo ra kết quá của sự phản ánh phụ thuộc vào cả 2 vật chất tác động và vật nhận tác động.





  • Các hình thức của phản ánh:
 Phản ánh vật lý, hóa học: là hình thức phản ánh thấp nhất đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hóa học biểu hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Chính vì vậy mà phản ánh mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật chất tác động.
 Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn phản ánh vật lý, hóa học, đặc trưng cho giới hữu sinh. Phản ánh sinh học thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng.
   -Tính kích thích là phản ánh của thực vật và động vật bật thấp (không có hệ thần kinh) bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng và phát triển, thay đổi màu sắc, cấu trúc khi nhận sự tác động trong môi trường. Như ta đã từng biết, cây luôn phát triển về hướng có ánh sáng mặt trời đó là tính kích thích của phản ánh.
Các hình thức của phản ánh
   -Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường.
 Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên cơ sở điều kiện của hệ thần kinh thông qua phản xạ có điều kiện.
  Ý  thức là hình thức phản xạ cao nhất của hình thức phản ánh. Được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người.
 Cùng với sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, không có bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Chính vì vậy bộ óc người và thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc là nguồn gốc của ý thức.

 Ta có thể thấy phản ánh thấp là tiền đề cho các phản ánh cao. Hình thức phản ánh phải phù hợp với thực tiễn. Từ các hình thức phản ánh cao, ta có thể suy đoán những hình thức phản ánh thấp hơn nhưng không có ngược lai.

 2. Nguồn gốc xã hội:

   a) Lao động:

 Lao động là hoạt động chủ động sáng tạo, có mục đích lao động, là điều kiện cơ bản đầu tiên của tất cả đời sống loài người. Chúng ta nói lao động là sáng tao ra bản thân con người. Thông qua lao động, hai chi trước của vượn giải phóng thành hai tay tự do, dáng đứng thẳng xuất hiện, các giác quan, bộ óc ngày càng hoàn thiện và phát triển. Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất của con người. Chỉ có con người mới lao động. Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Cũng có thể nói, ý thức được hỉnh thành do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan và biến đổi thế giới đó. Nhờ lao động bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn thiện làm cho khả năng tư duy trừu tượng ngày càng cao.

   b) Ngôn ngữ:

 Ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ của tư duy trừu tượng, là hình thức biểu đạt của tưởng tượng. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu chứa đựng thông tin, mang nội dung ý thức. Nếu không có ngôn ngữ, ý thức không tồn tại. Ý thức không phải là hiện tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội. Chính vì vậy nếu không có phương tiện để trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì không thể hình thành và phát triển . Đây cũng là sự kích thích chủ yếu của sự chuyển hóa bộ não loài vật thành bộ não con người, tâm lý động vật thành ý thức.

II. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC:

 1. Tính năng động, sáng tạo:

 Bản chất năng động, sáng tạo của ý thức thể hiện qua việc định hướng thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu trữ thông tin. Trên cơ sở thông tin đã có, ý thức có thể tạo ra thông tin mới và phát triển ý nghĩa của thông tin được tiếp nhau. Ý thức cải biến các vật chất di chuyển vào trong bộ não con người thành cái tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần- những hình ành chủ quan phản ánh bản chất của thế giới khách quan. Phản ánh dù trực tiếp hay gián tiếp, dưới dạng ý tưởng nào thì bao giờ cũng dựa trên tiền đề vật chất, dựa trên thực tiễn nhất định. Tính sáng tạo không có nghĩa là ý thức tạo ra vật chất, mà sáng tạo theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh. Từ xa xưa, con người luôn có một ước mơ được bay như những chú chim. Qua hình ảnh con chim, con người đã có thể bay lượn bằng một phát minh vô cùng sáng tạo là máy bay. Máy bay là sản phẩm thể hiện tính sáng tạo, năng động của ý thức thông qua hình ảnh con chim.

 2. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:

 Ý thức là hình ảnh thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức biễu hiện. Tuy nhiên, ý thức không còn y nguyên như thế giới khách quan mà được cải tiến thông qua lăng kinh chủ quan của con người. Trở lại ví dụ về ước mơ bay của con người, ta có thể thấy con người dựa vào hình ảnh của con chim để tạo ra máy bay, nhưng như chúng ta đã thấy máy bay ngày nay đâu hoàn toàn giống chim (ta có thể lấy một số mẫu máy bay như máy bay chở khách thông dụng,  trực thăng,...). Máy bay đã được cải tiến theo thời gian để phù hợp với nhu cầu của con người. Ý thức nằm trong bộ não người, ý thức không có tính chất vì nó là hình ảnh tinh thần gắn với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, lựa chọn.

 3. Ý thức là hiện tượng xã hội và mang bản chất của xã hội:

Sự ra đời và tồn tại  gắn với hoạt động ý thức không chỉ chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên mà còn các quy luật xã hội. Ý thức nằm trong các mối quan hệ đan xen, chồng chịt gắn liền với bản chất xã hội của con người.

III. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC:

 1. Theo chiều ngang:

   a) Tri thức:

 Tri thức là toàn bộ những hiểu biết con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, là điểu kiện để ý thức phát triển.

   b) Tình cảm:

 Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặt biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm là biểu hiện và sự phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người, là một yếu tố phát huy sức mạnh động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức.

   c) Ý chí:

 Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí là quyền lực của con người đối với bản thân con người đó, nó điều khiển, điều chính hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác, cho phép con người tự kiền chế, tự làm chủ ban thân và quyết đoán trong hành động.

 Tri thức, tình cảm và ý chí được hình thành, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ ràng buộc, chi phối, tác động lẫn nhau. Tính chất phong phú trong biểu hiện mỗi tình cảm con người có thể là nhân tố nguồn gốc và sự chi phối của nhân tố ý thức và ý chí. Ngược lại, trong mỗi con ý chí có thể bao hàm trong đó sự hiểu biết và tình cảm sâu sắc của con người.

 2. Theo chiều dọc:

   a) Tự ý thức:

 Tự ý thức là ý thức con người về những hành vi, những tình cảm, tư tưởng, động cơ, lợi ích của mình về địa vị của mình trong xã hội.

   b) Tiềm thức:

 Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tích cực tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát chủ chủ thể, sống lại có liên quan đến hoạt động của chủ thể trước đây. Tiềm thức là tri thức tiềm tàng, do thói quen của của con người tạo nên ngầm trở thành bản năng, kỹ năng, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Giống như những người khi tham gia giao thông có thói quen dừng xe lại khi có đèn đỏ, thì khi thấy đèn giao thông chuyển sang màu đỏ là họ tự động dừng lại thôi mà không cần suy nghĩ là nên đi hay chạy.

   c) Vô thức:

 Vô thức là hoạt động tâm lý đặc biệt không phải do lý trí điều khiển. Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài pham vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Con người không phải mọi lúc đều có hành vi do lý trí chỉ đạo, có hành vi do bản năng chi phối hoặc do những tác động được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen tới mức chúng vẫn tự động xảy ra. Khi tay ta đột ngột bị phỏng thì phản xạ đầu tiên của con người là thụt tay lại, đó là hoạt động vô thức.

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

VẬT CHẤT VÀ HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NÓ

I. ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT:

 1. Quá trình hình thành khái niệm vật chất:

 Trong lịch sử triết học trước Mác, hai trường phái chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã có những khái niệm khác nhau về vật chất.

  a) Chủ nghĩa duy vật:

 Vào thời cổ đại, các nhà chủ nghĩa duy vật đã đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Ta lấy ví dụ về nhà triết học Talet khi coi thực thể của thế giới là nước.
 Còn vào thời cận đại, khi khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, quan điểm siêu hình, máy móc bao trùm tất cả. Cho nên các nhà triết học coi nguyên tử (những phân tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được và không vận động, không gian và thời gian) là nguồn gốc thế giới. Ngoài việc họ đồng nhất vật chất với nguyên tử, họ còn đồng nhất vật chất với khối lượng coi đó là đại lượng bất biến.

 b) Chủ nghĩa duy tâm:

 Các nhà duy tâm chủ quan coi vật chất là tổng hợp của các cảm giác của con người.
Ví dụ: Từ thuở bé, chúng từng đọc câu truyện ngụ ngôn "thầy bói xem voi". Thầy sờ vòi bảo vòi voi sun sun như con đỉa. Thầy sờ ngà bảo nó dài như cái đòn càn. Thầy sờ tai bảo nó bè bè như cái quạt thóc. Và vật chất được tạo từ những cảm giác đó.
 Các nhà duy tâm khách quan coi vật chất là sản phẩm của ý niệm. Chính con người nghĩ ra vật chất.  Con người nghĩ về một bông hoa, và bông hoa trong đời thực được sinh ra từ suy nghỉ đó.
 Tôn giáo coi vật chất là sản phẩm của Chúa, Thượng đế.Ta đã từng nghe câu chuyện Thiên chúa dựng nên trời đất:
Đầu tiên Chúa đã dựng nên trời đất.
Ngày thứ nhất ngài tạo ra anh sáng.
Ngày thứ hai ngài tạo ra nước.
Ngày thứ ba ngài tạo ra cây cối.
Ngày thứ tư ngài tạo ra các ngôi sao.
Ngày thứ năm ngài tạo ra thú vật.
Ngày thứ sáu ngài tạo ra con người.
Ngày thứ bảy ngài nghỉ ngơi.

 2. Khái niệm vật chất:

  a) Quan điểm của Mác và Angghen:

   -Khi nghiên cứu phạm trù vật chất phải thông qua phạm trù đối lập của nó là phạm trù ý thức.
   -Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó.
   -Phương thức tồn tại của vật chất là vận động, không gian thời gian.
   -Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn.
   -Vật chất với tính cách là một phạm trù triết học thì không cảm tính mà chỉ cảm tính được các dạng cụ thể của vật chất mà thôi.
 Tuy nhiên do trình độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, các ông chưa đưa ra cụ thể về vật chất. Nhưng dựa trên nền tảng các lý luận trên, đã trở thành cơ sở nền tảng cho Lênin đưa ra các quan điểm về vật chất sau này.

b) Quan điểm của Lênin về vật chất:

 Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại con người trong cảm giác, được cảm giác con người chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
 Như vây, vật chất độc lập với ý thức, để nhận biết ta cần phải dựa vào thực tại khách quan, tức là các dạng tồn tại độc lập với con người, với cảm giác con người.
 Từ khái niệm vật chất của Lênin, ta có thể hiểu:
   -Vật chất là một phạm trù triết học. Cần phân biệt "vật chất" với tư cách là phạm trù triết học (tức là phạm trù khách quan và cơ bản nhất) với khái niệm "vật chất" được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành.
   -Vật chất là thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất, là thuộc tính tồn tại khách quan (tồn tại khách quan ngoài ý thức, độc lập không phụ thuộc vào ý thức con người).
   -Vật chất là thực tại khách quan đem  lại cho con người trong cảm giác (không lệ thuộc vào cảm giác), được cảm giác con người chụp lại, phản ánh. Và dưới một dạng cụ thể, vật chất gây nên cảm giác khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan của con người.
Ví dụ: Khi ta cầm một cục nước đá, tay ta cảm thấy lạnh đó là do cục nước đá đã tác động lên xúc giác con người và ngay lập tức, bộ não con người phản ánh lại với cục nước đá đó.
 Chính vì vậy, ta có thể nhận định vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc của cảm giác, ý thức.

  • Ý  nghĩa khái niệm vật chất của Lênin:
   -Khắc phục những hạn chế về khái niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ (khắc phục những tính chất siêu hình, máy móc tron quan điểm lúc bấy giờ), khắc phục được hạn chế trong quan điểm xã hội.
  -Khẳng định tính thừ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật, khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan, từ đó mở đường đi sâu vào nghiên cứu, thám phá những kết cấu phức tạp của thế giới vật chất.
   -Chống lại quan điểm tôn giáo, duy tâm về phạm trù vật chất.
   -Chống lại thuyết không thể biết.
   -Liên kết chủ nghĩ duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một thể thống nhất.

II. HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT:

 1. Vận động:

  a) Khái niệm vận động:

 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là một hình thức cố hữu của vật chất- bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ thay đổi đơn giản đến tư duy (mọi sự thay đổi nói chung).
 Vận động là tự thân vận động, không có tác động từ bên ngoài sự vật, hiện tượng quyết định mà do mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng.
 Vận động không phải sự thay đổi thuần túy trong không gian; với sự đa dạng, phong phú, vật chất còn nhiều hình thức vận động khác nhau, phức tạp hơn nhiều.
 Vật chất gắn liền với vận động, không thể có vận động tách khỏi vật chất và cũng không có vật chất mà không có vận động. Vật chất tồn tại bằng cách vận động, trong vận động và thông qua vận động má các dạng vật chất thể hiện đặc tính riêng của mình.
 Vì vận động là phương thức tồn tại của vật chất cho nên vật chất tồn tại khách quan, không sinh ra và không mất đi. Vận động là tuyệt đối.

  b) Hình thức vận động:

 Có 5 hình thức vận động:
Hình thức vận động của vật chất
   -Vận động cơ học là vận động đơn giản nhất, là sự chuyển dịch vị trí của các vật thể trong không gian. Vận động cơ học là đối tượng nghiên cứu của cơ học.
   -Vận động vật lý là vận động của các phân tử điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt điện. Vận động vật lý là đối tượng nghiên cứu của lý học.
   -Vận động hóa học là sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hợp và phân giải.
   -Vận động sinh học là quá trình biến đổi các chất đặc trưng cho sự sống, sự lớn lên của cơ thể sống nhờ quá trình trao đổi chất và môi trường; sự biến đổi cấu trúc gen.
   -Vận động xã hội là sự biến đổi  các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Vận động xã hội là đối tượng nghiên cứu của các ngành khóa học như kinh tế học, chính trị học, đạo đức học.
 Ta có thể thấy các hình thức vận động được xắp sếp theo thứ tự, trình độ từ thấp lên cao tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất.
 Vận động khác nhau về chất nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau (có khả năng chuyển hóa cho nhau). Hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình thức vận động thấp và bao hàm những hình thức vận động thấp hơn. Sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau nhưng bản thân sự tồn tại của sự vật đó đặc trưng cho một hình thức vận động cơ bản. Ta có thể lấy một ví dụ, một cơ thể sinh vật gồm vận động cơ học, vận động vật lỳ, vận động sinh học nhưng hình thức vận động sinh học của sinh vật là đặc trưng cơ bản của sinh vật. 

  c) Đứng im:

 Đứng in mà trạng thái đặc trưng của vận động, đó là vận động trong hệ cân bằng và đứng im là hiện thượng tương đối vì chỉ xảy ra đối với một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả các hình thức vận động và tất cả các quan hệ, đứng im là hiện tượng tạm thời vì đứng im chì tồn tại trong thời gian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn.
Ví dụ: ta có thể lấy một ví dụ như một chiếc xe đang chạy thì nếu so với chiếc xe thì con người ngổi trong chiếc xe đang đứng im, nhưng nếu so với cảnh vật xung quanh thì con người ngồi trong chiếc xe đang vận động.
 Vận động hệ cân bằng là vận động chưa làm thay đổi cơ bản về vị trí, hình thành, kết cấu của sự vật, chưa làm thay đổi cơ bản chất của sự vật.

 2. Không gian và thời gian:

 Mọi dạng cụ thể của vật chất tồn tại ở một số vị trí nhất định, có một quãng tính nhất định và tồn tại trong các mối tượng quan nhất định, đó là không gian.
 Tồn tại của sự vật được thể hiện ở quá trình biến đổi nhanh hay chậm, kế tiếp và hóa, đó chính là thời gian.
 Không gian thời gian gắn bó chặt chẽ với nhau đều là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vât chất tồn tại ngoài không gian và thời gian, cũng như không có không gian, thời gian tồn tại bên ngoài vật chất.

  • Tích chất của không gian và thời gian:
   -Tính khách quan: Vật chất tồn tại khách quan nên không gian, thời gian cũng tồn tại khách quan.
   -Tính vĩnh cữu và vô tận.
   -Tính 3 chiều của không gian (chiều rộng, chiều dài, chiều cao) và tính một chiều của thời gian (quá khứ đến hiện tại và đến tương lai)

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

TỒN TẠI THẾ GIỚI VÀ SỰ THỐNG NHẤT CỦA THẾ GIỚI

I. TỒN TẠI THẾ GIỚI LÀ TIỀN ĐỀ CỦA SỰ THỐNG NHẤT THẾ GIỚI:

 Khái niệm tồn tại chỉ là tiền đề xuất phát của nhận thức thế giới. Vấn đề mà nhận thức thế giới phải đi đến là quan điểm về sự tồn tại của thế giới. Để hiểu nhận định trên, ta hãy làm rõ một số khái niệm.

1. Khái niệm:

 Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, là sự phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới quan. Mỗi sự vật, hiện tượng đều bao gồm nhiều thuộc tính khác nhau, tuy nhiên, khái niệm chỉ phản ánh những thuộc tính bản chất, bỏ qua những thuộc tính riêng biệt.
Ví dụ: Ghế có những thuộc tính về màu sắc như đỏ, xanh, vàng,...; về chất liệu có nhôm, gổ,...Nhưng khái niệm chỉ phản ánh những thuộc tính của tất cả cái ghế đó là được con người làm ra và dùng để ngồi.

2. Nhận thức:

 Nhận thức là hoạt động (quá trình) con người tìm hiểu thế giới tự nhiên, trong quá trình này, con người lý giải vạn vật theo từng giai đoạn nhận thức của mình. Từ đó. tìm ra quy luật vận động và phát triển, thay đổi và tiến hóa, bản chất và hình thức, hình thành và tiêu vong của thế giới vật chất và tinh thần.

3. Quan niệm:

 Quan niêm là cách nhìn nhận đánh giá (quan niệm đúng hay sai).

 Từ đây, từ những thuộc tính bản chất của thế giới, ta làm tiền đề để hiểu những nguyên lý trong triết học và thế giới. Vấn đề của triết học là có cách nhìn nhận thức đúng đắn về thế giới.

4. Nội dung:

 Trong khi nhận thức thế giới, vấn đề đặt ra: "Thế giới quanh ta có thực hay chỉ là sản phẩm thuần túy của tư duy con người? Mọi sự vật, hiện tượng mà ta đã biết đến không phải là vĩnh viễn, vậy có thể nói tới sự tồn tại của chúng và suy rộng ra có thể nói về sự tồn tại của thế giới hay không?". Chính từ đây vấn đề thế giới tồn tại hay không tồn tại được đặt ra:
   - Thừa nhận thế giới không tồn tại thì không thể nói tới nhận thức.
   - Thừa nhận thế giới này tồn tại, từ đó cho ra đời những nhận thức thế giới khác nhau và chia thành hai trường phái chính là:
     + Chủ nghĩa duy vật: hiểu sự tồn tại của thế giới như chính thể mà bản chất của nó là vật chất,
     + Chủ nghĩa duy tâm: cho rằng thế giới chỉ là ý thức, tinh thần của con người.
 Tuy nhiên, sự thống nhất của thế giới không phải là ở tồn tại của thế giới vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã.

II. TÍNH THỐNG NHẤT VẬT CHẤT CỦA THẾ GIỚI:

 Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, bản chất của thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
   - Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, bản chất của thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và không phụ thuộc vào ý thức con người.
   - Mọi bộ phận của thế giới đều liên hệ vật chất với nhau, bởi vì chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, cùng có nguồn gốc vật chất, nguyên nhân vật chất, kết cấu vật chất, kết quả vật chất và cùng chịu sự chi phối của các quy luật khách quan của thế giới vật chất.
   - Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, không sinh ra và không mất đi, trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang diễn ra, chúng là nguyên nhân, kết quả và sự chuyển hóa của nhau.
   - Ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ não người, nó nằm trong bộ não người, nên cũng thuộc về thế giới vật chất. không thể có một thế giới thứ hai dành riêng cho ý thức.

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

VÌ SAO NÓI CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG DO MÁC VÀ ĂNGGHEN SÁNG LẬP LÀ HÌNH THỨC- TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CAO NHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen sáng lập là hình thức- trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử, vì:
 Một là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc lý giải các tồn tại trong giới tự nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) mà còn đứng trên lập trường duy vật trong việc giải thích các hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội loài người- đó chính là những quan điểm duy vật về lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
 Hai là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong quá trình định hướng nhận thức và cải tạo thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình ấy. Từ đó tạo nên sự đúng đắn, khoa học trong việc lý giải thế giới và cải tạo thế giới.
 Ba là, mội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở tổng kết những tinh hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tồng kết những thành tựu lớn của khoa học, của thực tiễn trong thời đại mới; nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và của các lực lượng tiến bộ thời đại ngày nay.
Trích "Hỏi và đáp môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin"

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. SỰ ĐỐI LẬP CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC:

1. Vấn đề cơ bản của triết học:

 Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa con người và thế giới nói chung mà trước hết và trung tâm là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
 Vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt:
   - Mặt thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Để giải quyết vấn đề này, triết học được chia thành 2 trường phái: chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy tâm.
   - Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Để giải quyết vấn đề này, triết học cũng chia thành 2 trường phái: khả tri luận (phái bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người) và bất khả tri luận (phái bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng nhận thức của con người).

  • VÌ SAO MÓI MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC LÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC? (trích Hỏi & đáp môn triết học Mác- Lênin- NXB Trẻ)
 Trả lời:
   - Vật chất và ý thức được coi là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học. Các học thuyết phạm trù dù khác nhau, song đều có chung nội dung cơ bản về mối quan hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
   - Mối quan hệ giữa vật chất là ý thức là nội dung cơ bản được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học.
   - Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa các trào lưu triết học.
   - Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở, nền tảng, là "chìa khóa" để giải quyết các vấn đề khác nhau trong triết học.

2. Chủ nghĩa duy tâm:

 Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Ý thức, tinh thần có trước, vật chất có sau; ý thức, tinh thần quyết định vật chất, còn vật chất chỉ là sản phẩm hoặc là hiện thân của ý thức.
 Chủ nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
   - Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức của con người, phủ nhận tồn tại khách quan của hiện thực; cảm giác, ý thức của con người có trước sinh ra quyết định vật chất, còn vật chất chỉ là sản phẩm của cảm giác, ý thức.
 Ví dụ: Trong bộ não con người đã có ý niệm về một bông hoa và từ ý niệm này đã sinh ra bông hoa ngoài hiện thực.
   - Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Coi ý thức, tinh thần là ý niệm nằm bên ngoài con người là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất.
 Ví dụ: Đâu đó bên ngoài ý thức con người có ý niệm về một bông hoa, chính ý niệm này đã sinh ra bông hoa đó.

3. Chủ nghĩa duy vật:

 Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; còn ý thức là sự phản ánh của vật chất vào trong bộ não con người. Đồng thời khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới.
 Chính vì vậy, chủ nghĩa duy vật khẳng định bản chất và cơ sở tồn tại của thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất.
 Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật từ thực tiễn và sự phát triễn khoa học. Chính qua thực tiễn và khái quát hóa tri thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ nghĩa duy vật là hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

II. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG- HÌNH THỨC PHÁT TRIỂN CAO NHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT:

 Để chứng minh chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, ta hãy cùng xét lại quá trình phát triển của các hình thức chủ nghĩa duy vật từ chủ nghĩa duy vật cổ đại, chủ nghĩa duy vật cận đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

1. Chủ nghĩa duy vật cổ đại (chủ nghĩa duy vật chất phát):

 Chủ nghĩa duy vật cổ đại là hình thức sơ khái của chủ nghĩa duy vật, mang tính thô sơ, mộc mạc. Chủ yếu xuất hiện từ quan sát trực tiếp thế giới để phỏng đoán các vật thể là khởi nguyên của thế giới, và chưa có cơ sở khoa học vì khoa học lúc này chưa phát triển.
 Chủ nghĩa duy vật được thể hiện nhiều trong các học thuyết duy vật cổ đại, tiêu biểu nhất là triết học cổ đại Trung Quốc, triết học cổ đại Ấn Độ, triết học cổ đại Hy Lạp. Ta có thể lấy một số đại diện như Talet coi nước là khởi nguyên của thế giới, hay Pytago coi khởi nguyên của thế giới là những con số, thuyết ngũ hành coi khởi nguyên của thế giới từ 5 nguyên tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

2. Chủ nghĩa duy vật cận đại (chủ nghĩa duy vật siêu hình):

 Chủ nghĩa duy vật cận đại là hình thức cơ bản thứ hai được thể hiện tiêu biểu trong lịch sự triết học cận đại Tây Âu vào thế kỉ XVII- XVIII. Đặc điểm chủ nghĩa duy vật cận đại là phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới.
 Chủ nghĩa duy vật cận đại xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh, không vận động, không thấy sự tác động qua lại của ý thức với vật chất, coi vận động là vận động cơ học, tức là chuyển địch vị trí trong không gian. Chủ nghĩa duy vật coi con người là máy móc. Trong quan điểm về giới tự nhiên thì rơi vào chủ nghĩa duy vât nhưng về xã hội thì rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
 Tuy chưa phản ánh đúng mối quan hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật cận đại đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo.

3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng:

 Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác và Ăngghen sáng tạo, Lênin và những người kế tục các ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phát thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đã đạt tới trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử.
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng có những đặc điểm cơ bản sau đây:
   - Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
   - Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
   - Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
   - Tính cách mạng.
 Trên cơ sở phản ánh đúng hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Chủ nghĩa duy vật biện chừng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Chính vì vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật.

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN

Chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả tất yếu của các điều kiện kinh tế- xã hội, tiền đề lý luận và khoa học tư nhiên.

1. ĐIỀU KIỆN TINH TẾ- XÃ HỘI:

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 30, 40 của thế kỉ thứ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tạo ra những mâu thuẫn cơ bản không thể giải quyết, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê) với giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội). Để giải quyết mâu thuẫn này, giai cấp vô sản phải đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Tiêu biểu là: cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) năm 1835- 1834; cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844, v.v.. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ từ thấp lên cao, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, từ tự phát đến ngày càng tự giác hơn. Chính vì vậy, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị với tính cách là một lực lượng chính trị- xã hội độc lập. 
Từ thực tiễn cách mạng đó, giai cấp vô sản xuất hiện một nhu cầu cấp bách là cần một học thuyết khoa học, cách mạng soi đường, đó chính là chủ nghĩa Mác.

2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN:

Chủ nghĩa Mác là sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, mà trực tiếp và trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

   2.2. Triết học cổ điển Đức:

Đặc biệt triết học của Hêghen và Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Công lao của Hêghen là ông đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua hệ thống các quy luật phạm trù. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm và tính chất phản động trong quan điểm về chính trị- xã hội. Chính vì vậy, Mác và Ăngghen khi phê phán triết học của Heghen đã không phủ định sạch trơn mà đã giữ lại “hạt nhân hợp lý”, đó phép biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, Mác và Ăngghen đã cải tạo để hình thành nên phép biện chứng duy vật của mình. 
Đối với triết học của Phoiơbắc, Mác và Ăngghen đã phê phán tính chất siêu hình trong chủ nghĩa duy vật nhân bản và trong quan điểm về giới tự nhiên, tính chất duy tâm trong quan điểm về xã hội. Tuy nhiên, chính chủ nghĩa duy vật, vô thần của Phoiơbắc đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của Mác và Ănghhen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa.

   2.3. Kinh tế chính trị cổ điển Anh:

A.Smith và D.Ricácđô là người có công lớn trong việc nghiên cứu kinh tế chính trị. Các ông đã xây dựng thành công lý luận về giá trị của của lao động, đưa ra những kết luận quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận; về tính chất quan trọng của quá trình sản xuất vật chất; về những quy luật kinh tế. Tuy nhiên, các ông lại không thấy được tính lịch sử của giá trị, mâu thuẫn và tính hai mặt của sản xuất hàng hóa, không phân biệt được hàng hóa giản đơn và hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chưa phân tích được chính xác biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Mác và Ăngghen đã kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học trong học thuyết trên, đồng thời phê phán cũng như khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó, hai ông đã xây dựng nên học thuyết về giá trị lao động, học thuyết giá trị thặng dư, luân chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

   2.4. Chủ nghĩa xã hội không tưởng:

Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có sự phát triển lâu dài và đỉnh cao vào cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX, với các đại biểu tiêu biểu là S.Simon, Fourier và R.Owen. Mác và Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo; sự phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản và đưa ra những dự báo về xã hội tưởng lai. Đồng thời, hai ông đã khắc phục những hạn chế trong học thuyết của họ, đó là tích chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, đã tạo tiền đề lý luân quan trọng cho sự ra đởi của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Mác

3. TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN:

Thế kỉ XIX, khoa học tư nhiên đã có được những thành tựu to lớn, đòi hỏi triết học phải có cái nhìn đúng đắn hơn về thế giới. Trong đó ba phát minh quan trọng đã ảnh hưởng đến sự ra đời chủ nghĩa Mác đó là: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa, thuyết tế bào.

   3.1. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng:

Định luật: năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác hay chuyển từ vật này sang vật khác.
Định luật bào toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh một cách khoa học về mối liên hệ không tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất trong giới tự nhiên.

   3.2. Thuyết tiến hóa:

Thuyết tiến hóa đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến bị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.

   3.3. Thuyết tế bào:

Thuyết tế bào là một căn cứ khoa học chứng minh sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và quá trình phát triển sự sống trong mối liên hệ của chúng.
Các thuyết trên đây đã khẳng định thế giới vật tồn tại vĩnh viễn, không sinh ra và không mất đi, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác; khẳng định bản chất thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó; khẳng định tính biện chứng trong quá trình vận động và phát triển của thế giới vật chất.
Mác và Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc các thành tựu khoa học tự nhiên; khái quát chúng thành các quan điểm triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

TRIẾT HỌC VÀ NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC

 I. NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC:

 Vào thời xã hội nguyên thủy, để tồn tại và giải quyết những vấn đề sống còn, con người phải thích nghi với thế giới xung quanh. Nhưng con người không thích nghi một cách thụ động mà luôn tìm cách biến đổi thế giới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ. Họ muốn hiểu biết thế giới và họ đặt ra hàng loạt câu hỏi: Thế giới này là gì? Thế giới này từ đâu ra và sẽ đi về đâu? Con người là gì? Vị trí, vai trò của con người trong thế giới? Con người có khả năng chi phối thế giới này hay không?... Tuy nhiên do tư duy con người lúc bấy giờ hết sức lạc hậu, và để trả lời câu hỏi đó, một hình thức tri thức đầu tiên của nhân loại ra đời, đó là huyền thoại.
 Nhưng khi hoạt động thực tiễn ngày càng trở nên da dạng, phức tập, con người xuất hiện nhu cầu mới. Họ phải hiểu một cách sâu sắc về bản chất quy luật của thế giới. Họ đặt ra các câu hỏi: Vì sao có ngày và đêm, có động đất núi lửa? Vì sao có kẻ giàu, người nghèo, kẻ hạnh phúc, người bất hạnh?... Chính điều này làm cho huyền thoại trở nên bất lực và được thay thế bằng một hình thức tri thức mới là tri thức triết học.
 Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ VIII đến thế kỉ VI TCN (vào thời chiến hữu nô lệ), do nhu cầu giải quyết những vấn đề sống còn của con người và xã hội loài người do hoạt động thực tiễn của con người ngày càng trở nên da dạng, phức tạp.
 Cái nôi của triết học phương Đông là triết học Ấn Độ và triết học Trung Quốc cổ đại, chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa người với người, tìm sức mạnh ờ tinh thần, ý thức. Chính vì vậy, triết học phương Đông mang tính hướng nội. Cái nôi của triết học phương Tây là triết học Hy Lạp và triết học La mã cổ đại, chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, tìm sức mạnh của con người ở hả năng chinh phục giới tự nhiên. Chính vì vậy, triết học phương Tây mang tính hướng ngoại.

 II. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC:

 Trước khi triết học Mác ra đời, triết học được xem là "khoa học của các khoa học" bởi vì sự phát triển của các tri thức cụ thể về tự nhiên và xã hội còn thấp kém và sự phân ngành trong khoa học còn chưa đầy đủ.
 Theo quan niệm Mác-xít, triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
 Ta có thể thấy khái niệm triết học gồm hai yếu tố:
   - Yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết thế giới xung quanh, sự hiểu biết các hiện tượng bằng hệ thống tư duy.
   - Yếu tố nhận thức: Vai trò của con người trong thế giới, đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ hành động.
 Từ những "lát cắt" khác nhau, triết học có thể hiểu:
   - Triết học là hệ thống các quan điểm về thế giới (thế giới quan), về nguồn gốc, bản chất của thế giới, vị trí của con người trong thế giới, về chính bản thân và cuộc sống con người.
   - Triết học là hệ thống phương pháp (phương pháp luận) gồm phương pháp nhận thức, phương pháp thực tiễn,...
   - Triết học là hệ thống các giá trị, những chuẩn mực, những lý tưởng mà con người khác khao vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách.
 Tóm lại, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới (tự nhiên, xã hội, tư duy), về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ BA BỘ PHẬN CẤU THÀNH

   1. KHÁI NIỆN CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN:

Chủ nghĩa Mác- Lênin là:
  • Hệ thống học thuyết các quan điểm và học thuyết khoa học do Mác và Ăngghen xây dựng, được Lênin bảo vệ và phát triển.
  • Hệ thống quan điểm và quan điểm được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại.
  • Hệ thống quan điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến cho sự sáng tạo nhận thức khoa học (nghiên cứu phát triển và sáng tạo ra cái mới) và thực tiễn cách mạng (thực tiễn cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).
  • Hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người.

     2. BA BỘ PHẬN CẤU THÀNH CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN:

Chủ nghĩa Mác- Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là; triết học Mác- Lênin, kinh tế chính trị học Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.
  • Triết học Mác- Lênin nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
  • Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, kinh tế học chính trị Mác- Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới- phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
  • Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác- Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội lên chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất- đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột và tiến tới giải phóng con người