Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

VÌ SAO NÓI CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG DO MÁC VÀ ĂNGGHEN SÁNG LẬP LÀ HÌNH THỨC- TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CAO NHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen sáng lập là hình thức- trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử, vì:
 Một là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc lý giải các tồn tại trong giới tự nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) mà còn đứng trên lập trường duy vật trong việc giải thích các hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội loài người- đó chính là những quan điểm duy vật về lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
 Hai là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong quá trình định hướng nhận thức và cải tạo thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình ấy. Từ đó tạo nên sự đúng đắn, khoa học trong việc lý giải thế giới và cải tạo thế giới.
 Ba là, mội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở tổng kết những tinh hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tồng kết những thành tựu lớn của khoa học, của thực tiễn trong thời đại mới; nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và của các lực lượng tiến bộ thời đại ngày nay.
Trích "Hỏi và đáp môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin"

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. SỰ ĐỐI LẬP CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC:

1. Vấn đề cơ bản của triết học:

 Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa con người và thế giới nói chung mà trước hết và trung tâm là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
 Vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt:
   - Mặt thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Để giải quyết vấn đề này, triết học được chia thành 2 trường phái: chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy tâm.
   - Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Để giải quyết vấn đề này, triết học cũng chia thành 2 trường phái: khả tri luận (phái bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người) và bất khả tri luận (phái bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng nhận thức của con người).

  • VÌ SAO MÓI MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC LÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC? (trích Hỏi & đáp môn triết học Mác- Lênin- NXB Trẻ)
 Trả lời:
   - Vật chất và ý thức được coi là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học. Các học thuyết phạm trù dù khác nhau, song đều có chung nội dung cơ bản về mối quan hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
   - Mối quan hệ giữa vật chất là ý thức là nội dung cơ bản được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học.
   - Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa các trào lưu triết học.
   - Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở, nền tảng, là "chìa khóa" để giải quyết các vấn đề khác nhau trong triết học.

2. Chủ nghĩa duy tâm:

 Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Ý thức, tinh thần có trước, vật chất có sau; ý thức, tinh thần quyết định vật chất, còn vật chất chỉ là sản phẩm hoặc là hiện thân của ý thức.
 Chủ nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
   - Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức của con người, phủ nhận tồn tại khách quan của hiện thực; cảm giác, ý thức của con người có trước sinh ra quyết định vật chất, còn vật chất chỉ là sản phẩm của cảm giác, ý thức.
 Ví dụ: Trong bộ não con người đã có ý niệm về một bông hoa và từ ý niệm này đã sinh ra bông hoa ngoài hiện thực.
   - Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Coi ý thức, tinh thần là ý niệm nằm bên ngoài con người là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất.
 Ví dụ: Đâu đó bên ngoài ý thức con người có ý niệm về một bông hoa, chính ý niệm này đã sinh ra bông hoa đó.

3. Chủ nghĩa duy vật:

 Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; còn ý thức là sự phản ánh của vật chất vào trong bộ não con người. Đồng thời khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới.
 Chính vì vậy, chủ nghĩa duy vật khẳng định bản chất và cơ sở tồn tại của thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất.
 Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật từ thực tiễn và sự phát triễn khoa học. Chính qua thực tiễn và khái quát hóa tri thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ nghĩa duy vật là hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

II. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG- HÌNH THỨC PHÁT TRIỂN CAO NHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT:

 Để chứng minh chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, ta hãy cùng xét lại quá trình phát triển của các hình thức chủ nghĩa duy vật từ chủ nghĩa duy vật cổ đại, chủ nghĩa duy vật cận đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

1. Chủ nghĩa duy vật cổ đại (chủ nghĩa duy vật chất phát):

 Chủ nghĩa duy vật cổ đại là hình thức sơ khái của chủ nghĩa duy vật, mang tính thô sơ, mộc mạc. Chủ yếu xuất hiện từ quan sát trực tiếp thế giới để phỏng đoán các vật thể là khởi nguyên của thế giới, và chưa có cơ sở khoa học vì khoa học lúc này chưa phát triển.
 Chủ nghĩa duy vật được thể hiện nhiều trong các học thuyết duy vật cổ đại, tiêu biểu nhất là triết học cổ đại Trung Quốc, triết học cổ đại Ấn Độ, triết học cổ đại Hy Lạp. Ta có thể lấy một số đại diện như Talet coi nước là khởi nguyên của thế giới, hay Pytago coi khởi nguyên của thế giới là những con số, thuyết ngũ hành coi khởi nguyên của thế giới từ 5 nguyên tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

2. Chủ nghĩa duy vật cận đại (chủ nghĩa duy vật siêu hình):

 Chủ nghĩa duy vật cận đại là hình thức cơ bản thứ hai được thể hiện tiêu biểu trong lịch sự triết học cận đại Tây Âu vào thế kỉ XVII- XVIII. Đặc điểm chủ nghĩa duy vật cận đại là phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới.
 Chủ nghĩa duy vật cận đại xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh, không vận động, không thấy sự tác động qua lại của ý thức với vật chất, coi vận động là vận động cơ học, tức là chuyển địch vị trí trong không gian. Chủ nghĩa duy vật coi con người là máy móc. Trong quan điểm về giới tự nhiên thì rơi vào chủ nghĩa duy vât nhưng về xã hội thì rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
 Tuy chưa phản ánh đúng mối quan hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật cận đại đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo.

3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng:

 Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác và Ăngghen sáng tạo, Lênin và những người kế tục các ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phát thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đã đạt tới trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử.
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng có những đặc điểm cơ bản sau đây:
   - Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
   - Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
   - Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
   - Tính cách mạng.
 Trên cơ sở phản ánh đúng hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Chủ nghĩa duy vật biện chừng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Chính vì vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật.

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN

Chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả tất yếu của các điều kiện kinh tế- xã hội, tiền đề lý luận và khoa học tư nhiên.

1. ĐIỀU KIỆN TINH TẾ- XÃ HỘI:

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 30, 40 của thế kỉ thứ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tạo ra những mâu thuẫn cơ bản không thể giải quyết, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê) với giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội). Để giải quyết mâu thuẫn này, giai cấp vô sản phải đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Tiêu biểu là: cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) năm 1835- 1834; cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844, v.v.. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ từ thấp lên cao, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, từ tự phát đến ngày càng tự giác hơn. Chính vì vậy, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị với tính cách là một lực lượng chính trị- xã hội độc lập. 
Từ thực tiễn cách mạng đó, giai cấp vô sản xuất hiện một nhu cầu cấp bách là cần một học thuyết khoa học, cách mạng soi đường, đó chính là chủ nghĩa Mác.

2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN:

Chủ nghĩa Mác là sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, mà trực tiếp và trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

   2.2. Triết học cổ điển Đức:

Đặc biệt triết học của Hêghen và Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Công lao của Hêghen là ông đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông qua hệ thống các quy luật phạm trù. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm và tính chất phản động trong quan điểm về chính trị- xã hội. Chính vì vậy, Mác và Ăngghen khi phê phán triết học của Heghen đã không phủ định sạch trơn mà đã giữ lại “hạt nhân hợp lý”, đó phép biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, Mác và Ăngghen đã cải tạo để hình thành nên phép biện chứng duy vật của mình. 
Đối với triết học của Phoiơbắc, Mác và Ăngghen đã phê phán tính chất siêu hình trong chủ nghĩa duy vật nhân bản và trong quan điểm về giới tự nhiên, tính chất duy tâm trong quan điểm về xã hội. Tuy nhiên, chính chủ nghĩa duy vật, vô thần của Phoiơbắc đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của Mác và Ănghhen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa.

   2.3. Kinh tế chính trị cổ điển Anh:

A.Smith và D.Ricácđô là người có công lớn trong việc nghiên cứu kinh tế chính trị. Các ông đã xây dựng thành công lý luận về giá trị của của lao động, đưa ra những kết luận quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận; về tính chất quan trọng của quá trình sản xuất vật chất; về những quy luật kinh tế. Tuy nhiên, các ông lại không thấy được tính lịch sử của giá trị, mâu thuẫn và tính hai mặt của sản xuất hàng hóa, không phân biệt được hàng hóa giản đơn và hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chưa phân tích được chính xác biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Mác và Ăngghen đã kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học trong học thuyết trên, đồng thời phê phán cũng như khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó, hai ông đã xây dựng nên học thuyết về giá trị lao động, học thuyết giá trị thặng dư, luân chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

   2.4. Chủ nghĩa xã hội không tưởng:

Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có sự phát triển lâu dài và đỉnh cao vào cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX, với các đại biểu tiêu biểu là S.Simon, Fourier và R.Owen. Mác và Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo; sự phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản và đưa ra những dự báo về xã hội tưởng lai. Đồng thời, hai ông đã khắc phục những hạn chế trong học thuyết của họ, đó là tích chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó, đã tạo tiền đề lý luân quan trọng cho sự ra đởi của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Mác

3. TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN:

Thế kỉ XIX, khoa học tư nhiên đã có được những thành tựu to lớn, đòi hỏi triết học phải có cái nhìn đúng đắn hơn về thế giới. Trong đó ba phát minh quan trọng đã ảnh hưởng đến sự ra đời chủ nghĩa Mác đó là: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa, thuyết tế bào.

   3.1. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng:

Định luật: năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác hay chuyển từ vật này sang vật khác.
Định luật bào toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh một cách khoa học về mối liên hệ không tách rời nhau, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất trong giới tự nhiên.

   3.2. Thuyết tiến hóa:

Thuyết tiến hóa đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến bị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.

   3.3. Thuyết tế bào:

Thuyết tế bào là một căn cứ khoa học chứng minh sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và quá trình phát triển sự sống trong mối liên hệ của chúng.
Các thuyết trên đây đã khẳng định thế giới vật tồn tại vĩnh viễn, không sinh ra và không mất đi, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác; khẳng định bản chất thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó; khẳng định tính biện chứng trong quá trình vận động và phát triển của thế giới vật chất.
Mác và Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc các thành tựu khoa học tự nhiên; khái quát chúng thành các quan điểm triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

TRIẾT HỌC VÀ NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC

 I. NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC:

 Vào thời xã hội nguyên thủy, để tồn tại và giải quyết những vấn đề sống còn, con người phải thích nghi với thế giới xung quanh. Nhưng con người không thích nghi một cách thụ động mà luôn tìm cách biến đổi thế giới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ. Họ muốn hiểu biết thế giới và họ đặt ra hàng loạt câu hỏi: Thế giới này là gì? Thế giới này từ đâu ra và sẽ đi về đâu? Con người là gì? Vị trí, vai trò của con người trong thế giới? Con người có khả năng chi phối thế giới này hay không?... Tuy nhiên do tư duy con người lúc bấy giờ hết sức lạc hậu, và để trả lời câu hỏi đó, một hình thức tri thức đầu tiên của nhân loại ra đời, đó là huyền thoại.
 Nhưng khi hoạt động thực tiễn ngày càng trở nên da dạng, phức tập, con người xuất hiện nhu cầu mới. Họ phải hiểu một cách sâu sắc về bản chất quy luật của thế giới. Họ đặt ra các câu hỏi: Vì sao có ngày và đêm, có động đất núi lửa? Vì sao có kẻ giàu, người nghèo, kẻ hạnh phúc, người bất hạnh?... Chính điều này làm cho huyền thoại trở nên bất lực và được thay thế bằng một hình thức tri thức mới là tri thức triết học.
 Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ VIII đến thế kỉ VI TCN (vào thời chiến hữu nô lệ), do nhu cầu giải quyết những vấn đề sống còn của con người và xã hội loài người do hoạt động thực tiễn của con người ngày càng trở nên da dạng, phức tạp.
 Cái nôi của triết học phương Đông là triết học Ấn Độ và triết học Trung Quốc cổ đại, chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa người với người, tìm sức mạnh ờ tinh thần, ý thức. Chính vì vậy, triết học phương Đông mang tính hướng nội. Cái nôi của triết học phương Tây là triết học Hy Lạp và triết học La mã cổ đại, chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, tìm sức mạnh của con người ở hả năng chinh phục giới tự nhiên. Chính vì vậy, triết học phương Tây mang tính hướng ngoại.

 II. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC:

 Trước khi triết học Mác ra đời, triết học được xem là "khoa học của các khoa học" bởi vì sự phát triển của các tri thức cụ thể về tự nhiên và xã hội còn thấp kém và sự phân ngành trong khoa học còn chưa đầy đủ.
 Theo quan niệm Mác-xít, triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
 Ta có thể thấy khái niệm triết học gồm hai yếu tố:
   - Yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết thế giới xung quanh, sự hiểu biết các hiện tượng bằng hệ thống tư duy.
   - Yếu tố nhận thức: Vai trò của con người trong thế giới, đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ hành động.
 Từ những "lát cắt" khác nhau, triết học có thể hiểu:
   - Triết học là hệ thống các quan điểm về thế giới (thế giới quan), về nguồn gốc, bản chất của thế giới, vị trí của con người trong thế giới, về chính bản thân và cuộc sống con người.
   - Triết học là hệ thống phương pháp (phương pháp luận) gồm phương pháp nhận thức, phương pháp thực tiễn,...
   - Triết học là hệ thống các giá trị, những chuẩn mực, những lý tưởng mà con người khác khao vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách.
 Tóm lại, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới (tự nhiên, xã hội, tư duy), về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ BA BỘ PHẬN CẤU THÀNH

   1. KHÁI NIỆN CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN:

Chủ nghĩa Mác- Lênin là:
  • Hệ thống học thuyết các quan điểm và học thuyết khoa học do Mác và Ăngghen xây dựng, được Lênin bảo vệ và phát triển.
  • Hệ thống quan điểm và quan điểm được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại.
  • Hệ thống quan điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến cho sự sáng tạo nhận thức khoa học (nghiên cứu phát triển và sáng tạo ra cái mới) và thực tiễn cách mạng (thực tiễn cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).
  • Hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người.

     2. BA BỘ PHẬN CẤU THÀNH CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN:

Chủ nghĩa Mác- Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là; triết học Mác- Lênin, kinh tế chính trị học Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.
  • Triết học Mác- Lênin nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
  • Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, kinh tế học chính trị Mác- Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới- phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
  • Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác- Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội lên chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất- đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột và tiến tới giải phóng con người